Nhẫn đính hôn – truyền thống, xu hướng phong cách và tôn giáo :Trong các nền văn hóa phương Tây, một chiếc nhẫn đính hôn được người đàn ông trao cho người phụ nữ. điều đó cho thấy rằng người đó đã đính hôn để kết hôn. Nó tách biệt với nhẫn cưới và theo phong tục tượng trưng cho tình yêu và sự cam kết giữa hai người.
Nhẫn đính hôn có thể được làm từ bạc, vàng hoặc bạch kim. Tất nhiên nó được trang trí bằng một viên đá quý hoặc nhiều viên đá quý. Mặc dù kim cương luôn sử dụng theo cách truyền thống, nhưng nhiều loại đá quý màu đang trở thành một lựa chọn phổ biến trong nhẫn đính hôn ngày nay. Ở một số nền văn hóa, cả nam và nữ đều đeo nhẫn đôi, và ở các nền văn hóa khác thì nhẫn đính hôn được sử dụng thay thế cho nhẫn cưới.
Tại Hoa Kỳ, một chiếc nhẫn đính hôn được trao trong một buổi cầu hôn. Còn chiếc nhẫn cưới được trao đổi giữa cô dâu và chú rể trong thánh đường như một phần của lễ cưới. Tục lệ này được gọi là lễ “trao nhẫn đôi”. Hầu hết phụ nữ đeo nhẫn đính hôn cùng với nhẫn cưới và thường có những bộ phù hợp.
Nội dung chính:
Đeo nhẫn đính hôn
Ở Vương quốc Anh, Ireland, Bắc Mỹ, Úc, Mexico, Brazil, Iran, Chile, Ý, Pháp, Thụy Điển, Slovenia và nhiều quốc gia khác, nhẫn đính hôn được đeo trên ngón áp út bên trái.
Người Hy Lạp, Nga, Ba Lan, Áo, Tây Ban Nha, Ấn Độ , Colombia, Venezuela và Na Uy thường đeo nhẫn cưới và nhẫn đính hôn trên ngón áp út của bàn tay phải.
Ở Đức, chiếc nhẫn đính hôn được đeo trên tay trái khi đính hôn, sau đó chuyển sang tay phải sau khi kết hôn.
Ở Brazil, không có khái niệm về nhẫn đính hôn. Cả nam và nữ đều đeo nhẫn cưới bên tay phải. Sau đám cưới, nhẫn được chuyển sang tay trái.
Theo phong tục Bắc Âu, cả nam và nữ đều đeo nhẫn đính hôn của mình. Gần đây, việc phụ nữ cầu hôn đàn ông ngày càng phổ biến với những chiếc nhẫn đính hôn của đàn ông được trang trí công phu có đính đá quý và kim cương.
Các quốc gia có ảnh hưởng bởi Công giáo nặng nề sẽ đeo nhẫn đính hôn của họ bên tay phải, vì bên trái gắn liền với tội lỗi. Ngoại lệ duy nhất là những người Công giáo Hà Lan, họ đeo nhẫn trên tay trái. Cô dâu Do Thái đeo nhẫn đính hôn ở tay trái, mặc dù trong lễ cưới, chiếc nhẫn cưới được đặt ở tay phải. Người Hồi giáo không có sở thích đeo nhẫn đính hôn hoặc nhẫn cưới bằng tay và việc trao nhẫn không phải là một phần trong lễ cưới của người Hồi giáo. Đó là một truyền thống mà họ đã áp dụng từ phương Tây. Cô dâu và chú rể Trung Quốc đeo nhẫn cưới trên tay đối diện. Chú rể đeo bên tay trái và cô dâu đeo bên tay phải, vì người phụ nữ sẽ gánh vác việc gia đình và tay phải được coi là chủ đạo.
Các cặp đôi ở Châu Á rất coi trọng chất lượng vàng làm nhẫn đính hôn. Thường thì họ sẽ lựa chọn mua những loại vàng tốt nhất như vàng 18k và 24 k. Ở Ấn Độ, vàng gắn liền với sự cao cấp, vẻ đẹp và sự hấp dẫn. Vàng chất lượng cao được coi là bền lâu hơn, vì vậy đầu tư vào một chiếc nhẫn chất lượng cao hơn có nghĩa là người ta đang đầu tư vào một cuộc hôn nhân lâu dài.
Người Trung Quốc có lý do riêng để đeo nhẫn đính hôn trên ngón đeo nhẫn. Theo một tín ngưỡng cổ xưa của Trung Quốc, các ngón tay khác nhau tượng trưng cho các thành viên trong gia đình của một người. Ngón tay cái tượng trưng cho cha mẹ, ngón trỏ đại diện cho anh chị em, ngón giữa đại diện cho bản thân, ngón đeo nhẫn đại diện cho người bạn đời của một người, và ngón út đại diện cho con cái của một người. Nếu bạn khép bàn tay lại thành một nắm đấm và sau đó cố gắng mở từng ngón tay một, bạn sẽ nhận thấy rằng bạn có thể dễ dàng tách ngón cái (bố mẹ), ngón trỏ (anh chị em của bạn) và ngón út (con cái). Tuy nhiên, bạn sẽ khó có thể tách ngón giữa và ngón đeo nhẫn. Đó là bởi vì cha mẹ bạn, anh chị em của bạn và con cái của bạn sẽ không sống với bạn mãi mãi. Chỉ có ngón tay đeo nhẫn, có nghĩa là người bạn đời của bạn sẽ ở lại với bạn mãi mãi.
Lịch sử của những chiếc nhẫn đính hôn
Truyền thống trao nhẫn cho mục đích cầu hôn đã có từ rất lâu về trước. Những người thượng cổ sẽ buộc những dải băng đan dệt bằng cỏ lên cổ tay, mắt cá chân và eo của bạn tình.
Những chiếc nhẫn ban đầu được làm từ cây gai dầu, da, xương, ngà voi, v.v., và cuối cùng là từ kim loại quý. Những người Ai Cập đầu tiên được tìm thấy khi chôn cất những chiếc nhẫn được làm từ một sợi dây bạc hoặc vàng. Chúng được đeo ở ngón áp út bên trái, vì người Ai Cập tin rằng ngón áp út chứa “mạch tình yêu” dẫn đến trái tim. Trong Kinh thánh, người hầu của Áp-ra-ham, Eliezer, đã tặng Rebekkah một chiếc nhẫn bằng vàng và hai chiếc găng tay bằng vàng để mong muốn của chủ nhân để cô trở thành cô dâu của Isaac – con trai ông.
Người Hy Lạp cổ đại tiếp tục truyền thống đeo nhẫn đính hôn, mặc dù nhẫn của họ không bắt buộc phải trao trước khi kết hôn. Nhẫn của họ được làm từ sắt, đồng, bạc và cuối cùng là vàng. Việc trao nhẫn cuối cùng đã được người La Mã áp dụng, tuy nhiên chúng không phải lúc nào cũng được sử dụng cho mục đích kết hôn mà đôi khi để biểu thị tình cảm và tình bạn. Vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, các cô dâu La Mã thường được tặng hai chiếc nhẫn, một chiếc làm bằng vàng để đeo ở nơi công cộng và một chiếc khác bằng sắt để đeo ở nhà khi làm việc nhà. Người La Mã theo truyền thống cổ xưa đeo nó trên ngón áp út bên trái và đặt tên cho tĩnh mạch tình yêu là “Vena Amoris”. Một số người đàn ông La Mã sẽ trao cho vợ sắp cưới của mình những chiếc nhẫn có khắc một chiếc chìa khóa nhỏ, được cho là chìa khóa trái tim của chồng họ.
Vào thế kỷ đầu tiên trước Công nguyên, những chiếc nhẫn đôi bắt đầu xuất hiện ở châu Á, sau đó lan sang thế giới Ả Rập, nơi các vị vua và hoàng phi sử dụng chúng để tăng sự khăng khít tình cảm.
Tương tự như vậy, vào thời Trung cổ, các ông chồng nhất quyết yêu cầu vợ phải đeo nhẫn của họ mọi lúc, đặc biệt là nếu các ông chồng đi công tác xa hoặc tham gia chiến tranh. Khi người chồng trở về và nhìn thấy chiếc nhẫn trên ngón tay của người vợ, điều đó chứng tỏ rằng cô ấy đã trung thành với anh ta.
Trong suốt thời Trung cổ , Ruby là loại đá quý được ưa chuộng cho nhẫn đính hôn, vì màu đỏ thể hiện tình cảm nồng nàn. Sapphire là một lựa chọn phổ biến khác cho nhẫn đính hôn, vì màu xanh lam đậm của nó gợi cho người đeo về bầu trời – nơi khởi đầu của mọi sự khởi đầu. Một số người đàn ông thời Trung cổ thường giữ một chiếc nhẫn đính hôn trong mũ của họ để luôn sẵn sàng trao cho người phụ nữ họ chọn.
Năm 1215, Giáo hoàng Innocent III ra sắc lệnh hôn lễ phải được tiến hành trong nhà thờ và bắt buộc phải có nhẫn cưới. Ông ta cũng đặt ra một khoảng thời gian chờ đợi giữa lễ đính hôn và lễ cưới thực sự. Đó là thời điểm những chiếc nhẫn đính hôn chính thức bắt đầu được sử dụng. Loại nhẫn đính hôn được đeo trong thời gian đó quyết định địa vị xã hội của người đeo, vì chỉ những người giàu có mới được phép đeo nhẫn có đính đá quý.
Trong suốt thời kỳ Phục hưng, Nhẫn Poesy đã trở nên cực kỳ phổ biến ở Châu Âu. Những chiếc nhẫn này có một bài thơ hoặc thông điệp tình yêu được khắc ở bên trong. Trên thực tế thì nhà văn Shakespeare thường đề cập đến chúng trong các tác phẩm của mình. Khi đính hôn, một chiếc nhẫn bạc đính hôn sẽ được trao cho cô dâu. Nó đã được thay thế bằng một chiếc nhẫn vàng giống hệt nhau sau khi kết hôn. Chiếc nhẫn poesy được sử dụng trong các truyền thống ở Anh, Pháp, Gaelic, Latinh, Đức, Do Thái, Ý, Nga và Tây Ban Nha….
Vào thời đại Victoria, một chiếc nhẫn đính hôn được gắn đá quý.
Phong tục cầu hôn bằng nhẫn kim cương của phương Tây hiện đại bắt đầu vào năm 1477, khi Hoàng đế La Mã Maximillion I cầu hôn Mary of Burgundy bằng một chiếc nhẫn được đính những viên kim cương dẹt hình chữ “M”. Vua Edward VI của Anh được cho là người đã chỉ định bàn tay trái là bàn tay hôn nhân chính thức. Sắc lệnh này được niêm phong trong Sách “Cầu nguyện chung” vào năm 1549.
Ở nước Mỹ thuộc địa, vào khoảng năm 1600 đã cố gắng xóa bỏ truyền thống đeo nhẫn cưới, vì họ nghĩ đeo đồ trang sức là không có giá trị đạo đức. Vào thời điểm đó, một số cô dâu sẽ nhận được những chiếc nhẫn bình thường thay vì nhẫn đính hôn.
Đeo một chiếc nhẫn cưới và một chiếc nhẫn đính hôn là một truyền thống tương đối gần đây. Năm 1761, Vua George III đưa ra ý tưởng về một chiếc nhẫn bảo vệ, được gọi là “người canh giữ”. Ông ta đã tặng một chiếc nhẫn nạm kim cương xung quanh cho hoàng hậu của mìn- Nữ hoàng Charlotte.
Năm 1867, kim cương được phát hiện tại Thuộc địa Cape của Nam Phi, khiến chúng dễ tiếp cận hơn với công chúng. Năm 1880, Cecil Rhodes thành lập Công ty khai thác DeBeers và nhanh chóng giành quyền kiểm soát hơn 90% sản lượng kim cương trên thế giới . Để củng cố thêm chiếc nhẫn đính hôn bằng kim cương như một truyền thống đính hôn cuối cùng, De Beers đã tung ra chiến dịch quảng cáo “A Diamond is Forever” vào năm 1947 và ủng hộ ý tưởng rằng một người đàn ông nên chi 2-3 tháng lương cho một chiếc nhẫn đính hôn bằng kim cương.
Năm 1886, Tiffany ‘s giới thiệu chiếc nhẫn đính hôn bằng kim cương solitaire độc nhất, đặc trưng của họ, được đặt trong một khung sáu ngạnh. Những gì từng chỉ dành cho tầng lớp quý tộc nhanh chóng trở thành sự lựa chọn của số đông. Vào những năm 1900, bạch kim được giới thiệu là kim loại đắt tiền hơn, chất lượng cao hơn để làm nhẫn đính hôn và nhẫn cưới. Ngày nay, hơn 7,7 tỷ đô la được chi hàng năm cho nhẫn đính hôn ở Hoa Kỳ, và hơn 80% phụ nữ Mỹ được tặng nhẫn đính hôn khi cầu hôn.
Nhẫn đính hôn trên khắp thế giới
Nhẫn đính hôn không phải lúc nào cũng phải đeo ở ngón tay. Trong truyền thống Ấn Độ giáo, phụ nữ đeo nhẫn ở ngón chân, hoặc cổ chân để mô tả tình trạng mới đính hôn của họ. Những chiếc nhẫn ngón chân này theo truyền thống được làm từ bạc vì vàng là chất liệu được coi trọng và không thể đeo dưới thắt lưng.
Ở Tây Bengal, phụ nữ được tặng những chiếc vòng đeo tay bằng sắt được mạ bạc hoặc vàng như một dấu hiệu của tình yêu và sự cam kết. Các cặp đôi người Romania trao đổi những chiếc nhẫn bạc vào kỷ niệm 25 năm ngày cưới của họ. Sau đó, họ đeo nó cùng với những chiếc vòng cưới bằng vàng của họ. Phụ nữ Nga và Pháp có thể đeo nhẫn được làm từ 3 dải màu trắng, vàng và hồng đan xen vào nhau.
Phụ nữ ở Ireland và các nước Celtic khác có thể đeo chiếc nhẫn mạ vàng như một chiếc nhẫn đính hôn. Bắt đầu từ thế kỷ 17 ở Ireland, chiếc nhẫn mạ vàng được dùng như một chiếc nhẫn đính hôn truyền thống. Nó chứa đầy biểu tượng của tình yêu, tình bạn và lòng trung thành.